LÊ QUÝ LONG
CON
ĐƯỜNG
TÌNH NGƯỜI
QUYỂN
II
2002
CON ĐƯỜNG
TÌNH NGƯỜI
dẫn đến
HÒA BÌNH & HẠNH PHÚC
Muốn có Hòa
bình, đem tình người mà đổi.
Muốn có Hạnh
phúc, lấy đạo đức mà mua.
CON ĐƯỜNG TÌNH NGƯỜI
“Con đường Tình Người” đã
có từ thời tiền sử của nhân loại. Các bậc Tổ Tiên của chúng ta đã rất sớm mở ra
con đường, nối kết anh em với nhau, nhằm tìm lại và duy trì những nghĩa tình
cao đẹp của buổi đầu. Con đường ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay, qua nhiều thời
đại, nhiều biến cố, nên phải chịu quá nhiều đổi thay:
I- THỜI SƠ KHAI
-
Buổi đầu:
Dù không thấy, nhưng ai cũng có thể hình dung được,
buổi đầu, loài người chỉ lèo tèo mấy nhóm nhỏ, mỗi nhóm năm bảy người. Kiếm ăn
dễ dàng, nên cũng dễ dàng chia sẻ cho nhau. Những khi buốt lạnh, nhất là về
đêm, họ quây quần chung quanh đống lửa, cùng sưởi ấm và cũng có thể, họ đấu
lưng với nhau để canh chừng thú dữ… Cái tình, cái nghĩa buổi đầu sao mà đẹp
quá: cảm thông nhau, thương yêu nhau, chia sẻ cho nhau và sống vì nhau!
-
Khi dân số tăng:
Mỗi nhóm, khi dân số dần tăng, phải chia nhau
tìm đất sống. Cái ăn dần khó kiếm nên phải dành dụm, canh chừng, bảo vệ của
riêng… Tình nghĩa trước đó, dần phai nhạt, anh em khó gặp nhau. Dần xa nhau thì
tình thương yêu cũng dần lạnh nhạt, khó cảm thông, khó chia sẻ.
Những bậc cao niên, còn nặng lương tâm, cảm thấy
xót xa, thèm khát tình cảm cũ, tìm mọi cách kêu gọi con cháu sống hướng về
nhau, thỉnh thoảng đến với nhau, hâm nóng lại cái tình nghĩa cao quí của ngày
nào. Có đến với nhau, có gần nhau, mới dễ cảm thông, dễ thương yêu và chia sẻ
cho nhau.
Lời mời gọi của các ngài khó được đáp ứng. Phải
tìm mọi cách, đi rỉ tai, mượn lời thần linh để khuyên nhủ. Cách này có hiệu quả.
Nhiều nơi cũng làm như vậy. Thần linh “xuất hiện” đó đây. Dần dần, con người
thêm râu, thêm mão cho thần linh, mô tả thần linh theo ý mình hoặc nhóm của
mình. Tạo địa điễm hội tụ, lập bàn thờ thần linh. Hướng về thần linh, ngày càng
mạnh, càng đông người. Nhưng mục đích ban đầu, dần mờ nhạt!
Để nhắc nhớ nhau sống tốt đẹp, qua hình thức
dâng hương lên thần linh, Tổ Tiên, Ông Bà… với ý nghĩa dâng những việc làm thơm
thảo với nhau, những việc làm đạo đức tiếng thơm bay xa… Đông Tây đều thực hiện
dâng hương (chỉ khác hình thức hương), nhưng ý nghĩa chính không những “dần mờ
nhạt” mà đã mờ nhạt trong lòng nhiều người!
Mỗi vùng, một thần linh. Đi đâu, con người cũng
thấy thần linh bên cạnh. Đứng trước những bao la hùng vĩ, huyền bí, con người gắn
đó một vị thần: thần đất, thần đá, thần núi, sông… Những ai có điều kiện, thi
nhau lâp đền thờ, kéo theo nhiều người sùng bái.
Thần linh, dù có hay không, cũng giúp cho con
người sống hướng thiện, sống tốt đẹp với nhau, tạo một xã hội yên bình. Nhưng lắm
kẻ lạm dụng, dẫn đến mê tín, cúng bái bằng tiền bạc… Thần linh không ban ơn vì
tiền bạc.
II- THỜI LẬP QUỐC
-
Những vùng đất lành:
“Đất lành, chim đậu”. Nơi nào dễ làm ăn sinh sống,
dân chúng kéo nhau đến. Bộ lạc, làng mạc, thị trấn… dần mở ra. Người đứng đầu,
thường là niên trưởng hoặc là giàu có hơn, nhất là người “có công” nhiều với thần
linh.
-
Các Vương quốc
Những vùng đất đông dân, kinh tế phát triển, một
hệ thống điều hành được hình thành. Người đứng đầu các hội đền thần linh sẽ điều
hành hoặc chỉ định người điều hành đất nước. Do đó, các đền linh điện thánh
nhanh chóng mọc lên đồ sộ, nguy nga khắp nơi. Những tiểu quốc nghèo, tín đồ
cũng ít người.
III- THỜI HỖN LOẠN
Thấy xã hội lắm bất công,
phe phái mạnh đè ép nhóm nhỏ yếu; dân trí mãi cậy dựa vào thần linh, nhiều người
lạm dụng niềm tin của kẻ khác để vinh thân phì gia, không muốn làm việc tự nuôi
sống bản thân mình mà chờ thiên hạ cung phụng… Nhiều học thuyết, chủ nghĩa ra đời,
đối kháng nhau, sinh ra tranh chấp, hận thù… Các tín ngưỡng cũng chia thành nhiều
chi phái, bất hòa với nhau!
IV- THỜI MUỐN HIỆP NHẤT
Con người quá mỏi mệt trong
một xã hội hỗn loạn, những nhà chính trị muốn liên hiệp, liên minh các quốc
gia, tạo một sức mạnh để bảo vệ bình yên, ấm no cho loài người. Tôn giáo cũng vậy,
đề nghị hiệp nhất. Nhưng “liên minh”, “hiệp nhất” theo ý hướng riêng của mình,
thì không thể nào thành công được. (Con đường Tình Người, quyển I, đã hiến kế).
V- THỜI CHỈNH TRANG
Ngày nay, có hàng ngàn
con đường giăng giăng khắp mặt địa cầu. Mỗi con đường, hấp dẫn một số người
không ít, chia nhân loại ra thành nhiều nhóm, khiến chúng ta dần xa nhau, loạn
lạc!
Mỗi một học thuyết, mỗi một
giáo thuyết, mỗi một chủ nghĩa… vẽ ra một con đường, tự khẳng định mình đúng hướng,
mình là “số 1”! Nhưng tất cả, đều đang đi trên một con đường chung để đến đích
của mình, mà họ không biết. Hoặc có biết, cũng chẳng muốn quan tâm.
Thật vậy, tất cả đang đi
trên một con đường chung, Con đường Tình Người, phần nhân bản của mọi định hướng,
để về đích mong ước. Rất tiếc, “đi” mà chỉ vọng đến “đích”, không để ý đến “con đường” đang đi.
Vậy phải chỉnh trang những gì và như thế nào?
Phải chỉnh trang suy tư và nhân cách; chỉnh trang các
tổ chức xã hội và phát triển dân trí.
-
Phát triển dân trí về khoa học kỹ thuật, phải phát triển (song hành)
giáo dục đạo đức, đề cao lương tri hướng thiện.
-
Tổ chức xã hội, tránh những thành phần ăn bám, hoặc có làm việc, những
việc vô bổ.
-
Nhân cách, biết tự trọng và tôn trọng phẩm giá người khác, biết cảm
thông và tha thứ, biết thương yêu và chia sẻ… Tối thiểu phải biết tôn trọng
công bằng. Không chịu làm việc (khi có điều kiện) để nuôi sống bản thân mà ngồi
chờ cộng đồng đóng góp cung phụng, là bất công! Đã “bất công”, không thể là người
tốt, không đủ tư cách để kêu mời người khác sống tốt đẹp được.
-
Suy tư, phải thực tế, phù hợp với khoa học, không mơ hồ, ảo tưởng; không
lừa dối, ám hại ai… Đừng vẽ ra những ảo tưởng, hy vọng mơ hồ, hứa hẹn những điều
không thể có để lôi kéo người khác đi vào con đường mê tín, lạc hậu, thiếu văn
minh, tiến bộ, ngược lại với ánh sáng khoa học; không lợi dụng thần linh để bòn
rút tiền của trong thiên hạ; không nên xây đền linh điện thánh đồ sộ, nguy nga…
trong lúc còn nhiều người đói khổ chung quanh… Những điều ấy, thần linh (nếu
có) không muốn như vậy. Suy tư thiếu thực tế, không đúng đắn, còn nhiều nhầm lẫn
nên cảm thấy đau khổ.
Tránh
nhầm lẫn về hạnh phúc, về hiện tượng “chết” của con người…
HẠNH PHÚC
Hạnh phúc là niềm ước mơ và khao
khát của mọi người. Ai chưa có được, thì chạy kiếm. “Chạy kiếm” là chính đáng,
chứ không thể chậm trễ. Nhưng, nhiều người “chạy” chưa đúng đường; “kiếm” chưa
đúng chỗ hoặc chưa đúng cách. Cứ ngỡ hạnh phúc ở trong giàu sang, mãi chạy theo
con đường ấy, kiếm hoài chẳng ra! Người đã giàu sang, muốn giàu sang hơn nữa,
hoặc lo sợ một ngày nào đó, “mất đi” những gì quí báu trong tay mình. Muốn thêm mà không được; lo sợ mất cái mình
đang có… là những nỗi khổ! Kẻ nhận thấy mình không thể giàu sang được, nảy sinh
gian tham, lừa đảo, trộm cắp, cướp giựt… Ngỡ hạnh phúc là quyền lợi, là địa vị,
dốc sức chạy theo con đường nầy, tìm mãi cũng không thấy! Người đã được địa vị
cao, có nhiều quyền lợi lớn, nhưng quyền lợi không thể kéo dài, địa vị rồi cũng
“ra đi”… họ cảm thấy buồn và đau khổ; kẻ chưa có được hoặc không thể có được,
đem lòng ganh tỵ, tìm cách quậy phá, sát hại… Ngỡ hạnh phúc là tình yêu, là lạc
thú… tìm mọi cách “ăn chơi”, dẫn đến chỗ suy đồi, tội lỗi và có khi phải nhận
lấy những căn bệnh hiểm nghèo! Một văn hào người Pháp, ông Albert Camus, đã xót
xa cho họ: “Không có gì thảm thương hơn cuộc sống của một người có hạnh phúc”.
Phải chăng, ông xót xa cho sự nhầm lẫn của những hạng người nói trên, ôm vào
lòng một mớ phức tạp mà đinh ninh đó là những hạnh phúc!
Thế hệ đi trước, thế hệ đàn anh của
chúng ta, nếu mãi nhầm lẫn về hạnh phúc, sẽ thất vọng, khổ đau. Sự thất bại của
chúng ta hôm nay, ảnh hưởng không tốt cho thế hệ trẻ, chúng sẽ bi quan, thất
vọng… sẽ đi tìm những thú vui tạm bợ, dù biết nguy hiểm, để gọi là an ủi: có cô
“bán thân”, có cậu “quên đời”, thậm chí có kẻ tuyệt vọng, quyên sinh! Nhưng,
nếu tất cả chúng ta đều ý thức đúng đắn về hạnh phúc thì rất dễ dàng có được
hạnh phúc. Gương “yêu đời” của chúng ta sẽ cảm hóa được thế hệ trẻ và để lại
cho chúng những kinh nghiệm sống tốt đẹp mà chúng ta đã gặt hái được, cho đàn
em thấy rõ, đâu là ý nghĩa của cuộc sống, đâu là những ưu đãi tràn đầy đang chờ
đón con người.
Vậy, hạnh phúc là gì và ở đâu? Hạnh
phúc đang ở trong ta, trong lòng ta, trong tâm hồn bình yên của mỗi một người.
Thực tế và rất thực tế, mọi người
đều có và đang có hạnh phúc. Trong ta, có hai loại hạnh phúc: hạnh phúc tự
nhiên (béatitude) và hạnh phúc tự tạo (bonheur). Hạnh phúc tự nhiên, với từ ngữ
“tự nhiên (béatitude)”, cho chúng ta thấy đây là một loại hạnh phúc được ban
tặng mà không cần có sự góp sức của con người và cũng không cần chờ ý kiến có
muốn nhận hay từ chối, đó là hạnh phúc
được làm người. “Làm người”, nếu
không phải là hạnh phúc, thì trên mặt đất nầy, bạn muốn làm cái gì để được toại
nguyện? – Không muốn làm người, một người anh hùng tài ba miền Đông Á, văn hay
võ giỏi, muốn “làm cây thông đứng giữa trời mà reo”; một nhà thơ xứ Tây Âu xưa,
muốn “làm tảng đá bên dòng suối để nghe tiếng nước róc rách”; một nhà triết học
có nhiều tham vọng chốn Trung Đông (khoảng thế kỷ thứ tám), muốn “làm Thượng Đế
để thống lãnh loài người”…! Nhưng “muốn” chỉ để nói lên tâm trạng nhất thời,
một thoảng ngông đùa giải trí, chứ có bà mẹ nào sắp sinh con lại không muốn đứa
bé chào đời được “bình thường” như bao đứa bé bình thường khác. Người mẹ rất
sung sướng có được một đứa con bình thường. “Làm người”, không những là hạnh
phúc mà còn là nguồn hạnh phúc của người khác.
Hai là hạnh phúc tự tạo. Với từ ngữ “tự tạo (bonheur)”,
cho chúng ta hiểu loại hạnh phúc nầy do ta “tạo” nên và dễ bị đánh mất, nếu
không biết nâng niu, giữ gìn. Hạnh phúc tự tạo, không hẳn là giàu sang, không
hẳn là quyền cao thế rộng và cũng không hẳn là được ngồi trên đỉnh cao của tình
yêu lứa đôi… mà hạnh phúc là sự bình yên trong tâm hồn. Bạn là người giàu sang, có quyền cao, thế rộng, có
tình yêu tốt đẹp… nếu trong tâm hồn không được bình yên, chắc chắn bạn không
cảm thấy có hạnh phúc. Ngược lại, bạn nghèo khổ, vất vả… nhưng có được sự bình
yên trong tâm hồn, lúc bấy giờ, bạn sẽ nhận ra điều ấy. Nhà nhân chủng học
người Pháp, ông Yves Coppens, đồng nhận xét với chúng ta, nhưng có kiểu nói như
khó thực hiện: “Hạnh phúc là sự thăng bằng trong đầu óc”; ông Philippe Dlerm
thì đơn giản hơn: “Hạnh phúc là sự hài hòa, là sự thanh thản…”. Còn các nhà tâm
lý học, xã hội học khắp thế giới, sau khi đã dày công nghiên cứu và trao đổi
với nhau, đưa ra kết luận (kết luận rất phù hợp với nhận thức của chúng ta):
“Sự bất an trong lòng là nỗi bất hạnh to lớn nhất”.
“Bình yên trong tâm hồn” ở đây, không đồng nghĩa với
“phải bằng lòng với số phận mình” (contentus sua sorte) như tư tưởng thủ phận
của những người cổ đại La Mã; không đồng nghĩa với “biết đủ thì đủ” như lời
khuyên của những người Á Đông xưa và cũng không phải “loại bỏ những nhu cầu”
thiết yếu trong đời sống để được “nhẹ tay”… mà “bình yên” trong ý thức mới, ý
thức cầu tiến có trách nhiệm, trong công bằng và tình người.
Muốn được “bình yên trong tâm hồn”, trước hết phải chu
toàn bổn phận mình (trong yêu thương và công bằng), bổn phận làm cha mẹ, làm
con cái, vợ chồng; làm học trò, làm thầy cô giáo; làm công nhân viên, làm cấp
lãnh đạo; làm dân, làm nhà cầm quyền… và bổn phận làm người. Chu toàn như thế
nào, không cần nhắc lại ở đây nữa, ai cũng “biết rồi”. Thứ đến, tạo cho mình 3
tinh thần cao quí: Biết thông cảm với những thiếu sót của kẻ khác, biết tha thứ
những lỗi lầm của họ và biết dắt dìu những người non yếu quanh ta. Các đức tính
tốt đẹp khác sẽ từ đó mà sinh ra.
Cố gắng hết mình để chu toàn bổn phận, kết quả thế nào là
việc khác. Không chu toàn bổn phận, lương tâm bị ray rứt; “chu toàn” thiếu yêu
thương và công bằng, lương tâm bị dày vò… không thể có sự bình yên trong tâm
hồn. Những thiếu sót của người khác, ta không biết thông cảm; những lỗi lầm của
họ, ta không chịu tha thứ, mãi trách móc giận hờn… làm sao tâm hồn bình yên
được! Không kịp thời dìu dắt, khuyên bảo những đứa trẻ non dại; không kịp thời
đưa tay vói đỡ những người già yếu, tật nguyền bên ta (khi điều kiện có thể),
chẳng may họ gặp phải những chuyện không lành, lương tâm ta sẽ bị ám ảnh và ân
hận mãi, đánh mất bình yên trong ta. “Dìu dắt”, không những là một tinh thần
cao quí mà còn là một bổn phận nữa.
Dĩ nhiên, của cải vật chất rất cần cho đời sống, nhưng
phải biết tích góp trong công bằng và với lòng nhân ái. Nếu của cải bạn có được
qua gian tham, lừa gạt hoặc cướp giựt trên tay người khác…bạn chẳng sung sướng
gì! Của cải vật chất chỉ là phương tiện sống. Của cải có nguồn gốc không tốt
hay là sử dụng vào những mục đích không tốt, sẽ làm cho bạn đau khổ. Địa vị
trong xã hội cũng vậy, là vinh dự và là trách nhiệm, là bổn phận. Có được địa
vị nào là do bạn đủ tài đủ đức, chứ không phải do mưu đồ, thủ đoạn để chiếm
lấy, đó mới là vinh dự, đáng được vui và đáng được tự hào. Dù cương vị nào, bạn
cũng phải ra sức chu toàn bổn phận mình cùng với
các cộng sự, trong công bằng và trên nền tảng tình người. Ta làm việc với lòng
nhân ái, với tình người, chắc chắn mọi việc sẽ
có kết quả tốt đẹp, lòng ta cảm thấy vui và nhiều người khác cũng được hưởng
nhờ.
Khi “công nhận hạnh phúc đích thực là sự bình yên trong
tâm hồn”, bạn dễ dàng nhận được hạnh phúc và cũng dễ dàng mang hạnh phúc đến
cho những người chung quanh, nhất là những đám trẻ “ăn chơi”, những kẻ quậy
phá, thích sát hại… Những hạng người nầy do mù quáng mà “hận đời”, muốn trả
đũa, muốn báo thù… Nhắc nhở cho họ thấy “trả đũa”, “báo thù”… dù có căn nguyên,
cũng chẳng dễ gì được và có được chăng nữa cũng chẳng bao giờ được yên lòng.
Cách “trả đũa, báo thù” dễ thành công nhất, dễ đem lại sung sướng cho lòng mình
và cho mọi người, là thông cảm và tha thứ.
Nhưng “bình yên” thế nào được, bạn nghĩ thầm, khi hãy còn
đầy dẫy những công việc chồng chất chung quanh!
Bạn là nhà lãnh đạo, là người điều hành ư? - Rất vinh dự
với người đời. Địa vị càng cao, vinh dự càng lớn thì trách nhiệm càng nặng nề.
Bạn phải lo liệu, tính toán để chu toàn bổn phận mình. Bạn chỉ vất vả chứ tâm
hồn đâu có gì ray rứt, ân hận… để phải mất bình yên. Bạn là công nhân viên, là
thương gia, là nông dân… “chu toàn bổn phận mình”, bạn có “cực khổ” chứ không
đau khổ. Bạn đang thiếu ăn, thiếu mặc? – Tích cực làm việc hơn nữa và một khi
nhiều người nhận thức đúng đắn về hạnh phúc, chắc chắn sự “kiếm sống” của bạn
sẽ không khó khăn lắm như bây giờ. Và, ngày hòa bình được lập lại (không khó, sau
đây có hiến kế), mọi sự sẽ tốt đẹp như lòng mong muốn. Chiến tranh không còn,
kho dự trữ cho quốc phòng không cần thiết nữa. Lấy đó mà lo cái ăn cái mặc cho
những người đang thiếu; sử dụng sức trai trẻ vào lao động, sản xuất ra nhiều
của cải, không để “ngồi giỡn đạn đùa bom suốt tháng ngày” như trước đây. Những
nơi dư thừa của cải (chắc chắn là có dư thừa), giữ lại làm gì cho phí, chuyển
đến biếu cho những chỗ đang cần. Súng đạn, biến thành sắt thép để xây thêm
trường học, bệnh viện; xe tăng, tàu chiến… biến thành máy cày, máy xới, biến
thành phương tiện chuyên chở lương thực, thuốc men cho nhau. Sức người, sức của
đã dư thừa, ngành y dược sẽ được đầu tư nhiều
hơn, bệnh tật sẽ được chữa lành. Một tương lai tươi sáng đã mở ra, những băn
khoăn của bạn không còn lý do để tồn tại.
Cũng có thể, bạn cho đây là một ý kiến tương đối chấp
nhận được hoặc “tạm mượn” để mua vui cho cuộc sống, bạn cứ thực hiện theo tinh
thần của mình. Mang niềm vui “tạm bợ” nầy chia sẻ với những người bên cạnh, bạn
sẽ thấy vui nhiều hơn và cứ như thế, nhân rộng, dần dần bạn sẽ nhận ra đã có
được một niềm vui thực sự trong lòng, chứ không phải là một “ý kiến” suông, một
ước mơ suông.
Ngoài ra, những người có nghệ thuật sống, cũng dễ dàng
tìm được hạnh phúc cho mình, dù trong bất cứ tình cảnh nào: sống có niềm tin,
có lý tưởng hoặc có một đam mê trong sáng nào đó…
Bạn đã ý thức rõ, ý thức đúng đắn về hạnh phúc, nhưng tâm
hồn không phải lúc nào cũng được bình yên. Thỉnh thoảng cũng có những lo âu,
những buồn phiền… Không nên lấy làm lạ, trên đời không có gì tuyệt đối. Sự
tuyệt đối sẽ làm bạn nhàm chán. “Nhờ” có đau khổ bạn mới thấy giá trị của hạnh
phúc. Nhờ có màu đen bạn mới biết thế nào là màu trắng. Không những “đời là bể
khổ” mà còn là một “trời hạnh phúc”nữa. Đời không những đẹp như một bài thơ,
như một bức tranh mà đời còn đẹp như một bản nhạc nữa, nghĩa là phải có “lúc
trầm, lúc bổng”.
Tóm lại, bạn cố gắng chu toàn bổn phận mình trong công
bằng và trách nhiệm, trong nhiệt huyết và tình người. Biết thông cảm với những
thiếu sót của kẻ khác, biết tha thứ những lỗi lầm của họ và phải biết dắt dìu
những người non yếu bên ta… lòng bạn sẽ được thanh thản, tâm hồn bạn sẽ được
bình yên, đó là hạnh phúc, hạnh phúc đích thực của con người.
HIỆN TƯỢNG
« CHẾT »
Là người, ai cũng có những niềm vui và nỗi buồn. Nếu may
mắn có được niềm vui, dù lớn hay nhỏ, là điều đáng mừng cho nhau. Ngược lại,
nếu gặp phải những đau buồn, mỗi người cũng đã có cách riêng để tự giải quyết
cho mình. Nỗi
buồn thiếu cái ăn cái mặc, kém sức khỏe… chúng ta có thể cố gắng vượt qua. Buồn
vì chỗ đứng trong xã hội chưa được như ý, buồn vì tình cảm bị sứt mẻ, tình yêu
dở dang… chúng ta cũng có thể hàn gắn, điền khuyết lại được. Hoặc, cũng có
người, sinh ra và lớn lên trong ưu đãi tràn đầy, chưa hề biết những nỗi đau
buồn ấy là gì. Nhưng tất cả, tất cả chúng ta, đều phải mang cùng một nỗi đau
buồn to lớn nhất trong đời, mà chưa một ai có thể tháo gỡ trọn vẹn cho nhau:
Cái “chết” của loài người!
Đứng trước những nỗi đau khổ vì cái “chết” của nhau, các
bậc vĩ nhân, thánh nhân… nhất là các tôn giáo, đã đưa ra nhiều triết thuyết để
an ủi, để xoa dịu nỗi đau cho nhau, hy vọng còn gặp lại ở một nơi nào đó: dưới
Suối vàng hoặc trên Thiên đàng; được vào cõi Niết bàn hay miền Cực lạc… Song thực
tế, không mấy người theo kịp những triết thuyết cao siêu ấy! Số đông còn lại,
thì sao?(!) Và cho dù cả nhân loại có theo kịp những lý tưởng cao đẹp ấy chăng
nữa, tại mặt đất nầy, thực tế chúng ta phải đau khổ trước cái “chết” của người
thân yêu! Biết bao cô gái đã ngất xỉu khi nghe tin mẹ mình “chết”! Có cô lăn xả
vào quan tài, muốn nằm chung với mẹ mình khi tẩm liệm; có cô đòi nhào xuống
huyệt đất, để được tiếp tục sống gần mẹ…
Tại sao chúng ta phải đau khổ quá nhiều như vậy? Hẳn
chúng ta đã bị ấn tượng: “chết” là mất, là không còn gì, là không bao giờ tìm
thấy lại… Hoặc bi quan hơn thế nữa: “Tử giả biệt luận”! Thêm vào đó, chúng ta
đang đau khổ, thì những vòng hoa phúng điếu như xúi giục chúng ta phải đau khổ
hơn nữa: “Vô cùng thương tiếc”, “Xin vĩnh biệt”…
Ai đó đã kết thúc bài điếu văn khóc mẹ mình: “Cúi lạy quý
thân bằng quyến thuộc, thưa các ngài, mẹ tôi không chết, không mất… gì cả.
Người chỉ yên nghỉ nơi đây và đang hiện diện trong tôi, trong anh chị tôi,
trong đàn cháu nội, ngoại… của Người”.
Những ai có mặt trong lúc tiễn đưa, phải ngạc nhiên và
lấy làm khó chịu với những lời tuyên bố “lạ tai” ấy. Nhưng suy xét cho cùng,
chúng ta không thể phủ nhận sự kiện thực tế rất rõ ràng nầy.
Kết thúc bài điếu văn như vậy và được mọi người tiếp tục
làm như vậy, dần dần, chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng trong những nỗi buồn phải
từ giã người thân yêu, dù vẫn phải ngậm ngùi, lưu luyến và khóc thương cho
người đã âm thầm nằm xuống! Ước gì những giọt nước mắt nầy nhẹ nhàng và đẹp như
những giọt nước mắt của những bà mẹ tiễn con gái về nhà chồng; như những giọt
nước mắt của những người cha tiễn con lên đường du học phương xa… Và ước gì
trên những vòng hoa phúng điếu, chúng ta đều sửa lại: “Xin tạm biệt…” có phải
hợp lý và nhẹ nhàng hơn cho nhau không? Sử dụng từ “tạm biệt” là cách an ủi
nhau sâu sắc và hữu hiệu nhất. Xin xoá hẳn từ “chết” trong ngôn ngữ của loài
người, kể từ hôm nay, vì trong cả vũ trụ, không có hiện tượng nào là “chết”, mà
chỉ có biến hóa, biến đổi hay biến dạng… Vậy, xin dùng và nên dùng từ biến dạng thay thế cho từ “chết” để
loài người không còn bị ám ảnh lệch lạc về hiện tượng nầy nữa, hầu xóa hẳn được
một nỗi đau to lớn nhất trên đời.
“Mẹ tôi không chết, Người hiện diện trong tôi”, nói lên
lòng thương yêu vô bờ, nỗi tiếc nhớ khôn nguôi, một tình cảm bao la, sâu thẳm
và chân thật; nói lên lòng mong muốn được sống gần, sống chung với mẹ, nhưng
không chung “cùng một quan tài”, “cùng một huyệt đất” như các cô gái trước đó,
mà “chung” trong quan niệm mới, trong minh định mới… trên nền tảng thực tế của
khoa học. Lòng mong ước được tiếp tục sống gần, sống chung, để gắn liền với đời
sống của mẹ mình, thực tế họ đã có được và thực sự họ đã “là một”, qua công
cuộc họ đang kế thừa sự sống của mẹ mình. Và cứ như thế, cho chúng ta thấy, con
người từ nguyên thủy vẫn mãi mãi còn sống trong những con người sau cùng.
Một người “nằm xuống” chỉ là một hiện tượng thay hình đổi
dạng. Nói cách khác, sự “chết” của con người, phải hiểu cho đúng với thực tế,
chỉ là một hiện tượng “biến dạng”.
Trong đời sống hằng ngày, mỗi người chúng ta luôn luôn
chịu sự biến dạng không ngừng: Các tế bào già bị đào thải, nhường chỗ cho những
tế bào non phát triển.Sự biến dạng nầy, tuy có tính cách hủy diệt nhưng vẫn giữ
được nguyên thể, nên mắt ta khó nhìn thấy. Cha mẹ sinh con cái là sự biến dạng
có tính cách kế thừa nhưng phải chịu phân thể. Dù biến dạng nguyên thể hay phân
thể, cũng chỉ là những biến dạng từng phần. Khi con người nằm xuống, nhắm mắt
xuôi tay, vĩnh viễn bất động, là lúc cả thân xác bị biến dạng hoàn toàn, ta gọi
hiện tượng nầy là biến dạng toàn phần.
Đã là biến dạng, thì biến dạng từng phần hay biến dạng
toàn phần, cũng là biến dạng. Sao trong suốt thời gian biến dạng từng phần,
chúng ta không thấy đau buồn, than khóc? Mà đến lúc gặp biến dạng toàn phần,
lại quá đau đớn, đến nỗi phải ngất xỉu? Phải chăng, chúng ta đã bị “ấn tượng di
truyền”, một ấn tượng sai lầm từ xa xưa!
Ngày nay, bạn đã biết rõ: quả đất không phải vuông, không
phải đứng yên một chỗ… như thời xưa, ông bà chúng ta đã nhận xét. Thì từ đây,
từ hôm nay, ngay từ lúc nầy, bạn hãy mạnh dạn nhìn nhận thực tế: con người
không phải chết, không phải mất… mà chỉ liên tục chịu sự biến dạng.
Đúng thế, có lẽ bạn đã thừa biết, mỗi một con người chúng
ta, gồm có hai phần: phần tinh thần và phần thể chất.
Phần tinh thần siêu việt, không bị chi phối bởi qui luật
biến hóa của vũ trụ vật chất, nên “bất biến”: mãi mãi còn đó.
Phần thể chất nầy gồm có ngôn ngữ, cử chỉ, hình bóng,… và
thân xác. Ngôn ngữ, cử chỉ, hình bóng, suy nghĩ… đã được phát thành sóng, đã
được ánh sáng mang đi trong không gian nầy và còn đó. Nếu có một chiếc máy tối
tân, ta cũng sẽ ghi nhận lại được. Các đài truyền thanh, truyền hình, giúp
chúng ta dễ hiểu việc nầy. Nếu ý thức được như vậy, những kẻ gian ác không bao
giờ dám lén lút trong bóng tối hoặc tránh mắt người đời để phạm tội, chúng phải
sợ, vì rất có thể, gặp một chướng ngại vật nào đó, các làn sóng mang âm thanh,
ánh sáng mang hình ảnh sẽ phản hồi, những ngôn ngữ kia, sẽ có người nghe được;
những hình ảnh đen tối kia, sẽ có người bắt gặp… Hiện tượng nầy, xưa nay trên
thế giới, cũng đã từng xảy ra đây đó, mà người bình dân thường hiểu là “ông nọ
bà kia hiện về, mách bảo…” Và, những ảo ảnh trong sa mạc, là một đơn cử. Khổng
Tử cũng có cảm nhận na ná như thế: “Lưới trời tuy lồng lộng, một trẻ sơ sinh
cũng không thể lọt ra khỏi”.
Về thân xác, một thời chỉ là cái bào thai trong bụng mẹ;
một thời là tấm bé ngơ ngác trong nôi; một thời nhí nhảnh trong bộ quần áo mới
của tuổi học trò… Ba thời kỳ ấy, có ai dám chối bỏ, không phải là chính mình?
Và rồi, một thời trong tư cách đứng đắn của tuổi trung niên; một thời già nua,
còng lưng trên chiếc gậy; một thời phải lặng lẽ đi vào lòng đất với nắm xương
khô hoặc với một chén tro tàn, theo kiểu hỏa táng… Ba thời kỳ kế tiếp nầy, hẳn
cũng chính là ta? Thân xác ta cũng vẫn còn đó.
“Vật chất luôn biến hóa, nhưng không mất vật chất” kia mà.
Vậy, một người “nằm xuống”, đã mất những gì để phải vô
cùng đau đớn, khóc than não nuột?
Bạn có thể viện lý do: “Tôi đã mất người thân yêu trong
vòng tay…”
Đứa bé nhà kia thích bế mãi trong tay một con búp bê xinh
đẹp. Cha mẹ cháu cũng quí lắm, mang búp bê đặt vào trong tủ kính. Bé òa khóc,
đòi lấy trở lại, muốn ẵm búp bê mãi trong lòng cho thỏa ước muốn. Bạn nên giải
thích cho bé rõ thì dần dần bé sẽ bớt khóc, dù bạn không mở tủ lấy búp bê trao lại cho bé. Ngược lại, nếu bạn “đồng
tình” với bé: “Vô cùng thương tiếc”… bé sẽ đập đầu vào tường mà giãy giụa khóc
nhiều hơn!
Cũng có thể bạn công nhận con người chỉ biến dạng chứ
không mất đi, nhưng bạn chỉ thích hình dạng cũ, hình dạng mà bạn đã nhiều gắn
bó, thân thương..?
Cô học trò nọ vừa xin được cái kén đẹp, vàng óng những
vòng tơ, đặt lên trang vở của mình, thích thú ngắm mãi. Chẳng bao lâu, cái kén
phải hư đi. Cô bé không buồn, vì đã có một cánh bướm xinh xắn xuất hiện. Rồi
cũng chẳng bao lâu sau, cánh bướm lại phải ngã gục. Bé cũng không buồn, đã có
một đàn tằm con thay thế. Người thân yêu của chúng ta nằm xuống, chúng ta có
cảm tưởng như mất họ trong vòng tay của mình, hoặc chúng ta chưa thấy có gì
thay thế vào đó, tốt xấu thế nào cũng không đoán được, dĩ nhiên không thể vui,
nhưng cũng đừng vội buồn sầu, đau khổ.
Một bưu tín viên đến nhà, mang cho bạn một bức điện tín.
Chưa rõ nội dung sẽ là tin vui hay buồn mà bạn vội khóc lên sao?
Hoặc bạn vin vào tâm lý chung của mọi người, trong suốt
thời gian chịu sự biến dạng từng phần, chỉ là những sự “mất dần”, nên nỗi buồn
cũng chỉ dần dần, còn có thể “dễ chịu”. Nhưng đến lúc biến dạng toàn phần, nỗi
buồn dồn dập, chồng chất lên to lớn quá, khiến con người phải vô cùng đau khổ,
có người đau khổ đến ngất xỉu?
Xin thưa, nếu vậy, bạn cũng nên lưu ý sâu xa hơn tý nữa,
khi con người “nằm xuống” cũng không phải là lúc “phải mất sạch”, cũng chỉ “mất
dần” đấy chứ! Cha mẹ sinh ra người con đầu, là cắt một phần thân thể mình để
tạo nên một sự sống mới. Tạm tính là cắt đi một nửa, còn lại một nửa. Khi sinh
người con thứ hai, cha mẹ cắt một nửa thân thể của mình còn lại, tức là một
phần tư thân thể ban đầu. Lúc nầy, các ngài chỉ còn lại một phần tư. “Phần tư”
nầy, dù biến dạng toàn phần, cũng chỉ biến dạng một phần tư thân xác ban đầu
của cha mẹ. Nỗi đau buồn của bạn cũng phải công bằng mà “chia tư”, nào có
“chồng chất lên to lớn quá”!
Tóm lại, nhờ có sự tiến bộ của khoa học, chúng ta biết
quả đất tròn và chuyển động; thì cũng nhờ sự tiến bộ của khoa học, chúng ta thấy
rõ ràng hơn, loài người không phải chết, không phải mất đi… mà chỉ liên tục
biến dạng.
Sự trường tồn của nhân loại, qua sự biến dạng phân thể có
tính cách kế thừa sự sống, giúp chúng ta dễ nhìn nhận “Nhân loại bất tử”. Nhìn nhận “Nhân
loại bất tử” là một sự nhìn nhận hiển nhiên, nhưng bị cuộc sống chi phối
quá nhiều, chúng ta phải vật lộn với bao nhiêu công việc khác mà ngỡ là cần
thiết và cấp bách hơn… trong khi đó phải tạm gác lại hoặc lãng quên một điều
tối quan trọng, cần thiết và cấp bách hơn nhiều, là “ta không chết” mà cứ ngỡ là “ta chết”!
Vì thế, chúng tôi van xin quý vị, hãy vì những người thân
yêu nhất của mình, quý vị mạnh dạn công bố với họ rằng “Nhân loại bất tử”, để … khi quý vị nhắm mắt xuôi tay, họ bớt đau
khổ phần nào.
Nào, chúng ta hãy mạnh dạn nhìn vào thực tế, mạnh dạn
công nhận và công bố cho nhau “Nhân loại
bất tử”. Công nhận “Nhân loại bất
tử” là xoa dịu nỗi đau to lớn nhất cho nhau; là nhắc nhở cho nhau thấy rằng
mỗi người đang mang thân xác của cha mẹ mình và nhìn nhận thân xác cha mẹ mình
nơi thân xác anh chị em, phải thương yêu và quí trọng lẫn nhau để xứng đáng là
những người kế thừa sự sống của các ngài.
Ý thức rõ như thế và nhân rộng ra, giữa con người với con
người, sẽ dễ dàng thương yêu nhau hơn, dễ dàng thông cảm, tha thứ cho nhau hơn.
Anh chị em trong một nhà, không còn ganh ghét nhau; người trong một nước, không
còn chia rẽ; dân tộc nầy, không còn tranh chấp, hận thù, ghìm súng sát hại dân
tộc kia! Bởi lẽ, họ đã hiểu rõ, họ không có quyền hạ sát những sự sống phía trước,
là những sự sống, cũng như họ, đang có trách nhiệm nối dài sự sống của Tổ tiên
mình.
Được vậy, nỗi đau
của nhân loại dần dần sẽ vơi đi và nền hòa bình
thực sự sẽ sớm đến với mọi người.
ĐẠO
ĐỨC
Có lẽ không ai không phản đối, khi nói rằng
“Để có được hòa bình, chỉ cần sử dụng lòng đạo đức của mọi người và mọi người
cần phải nhận thức đúng đắn về hạnh phúc”. Hạnh phúc đích thực và lòng đạo đức
trong chúng ta, sẽ tạo nên chiếc chìa khóa cho cánh cửa hòa bình.
Đạo đức làm
người, ai trong chúng ta cũng có hoặc ít hoặc nhiều. Cái “có” ấy, từ đâu mà có?
Dĩ nhiên, “có” từ huyết thống của hai dòng họ
nội, ngoại; từ gia đình, ông bà cha mẹ; từ thầy cô giáo ở nhà trường và từ các
tập thể, các cá nhân… ngoài xã hội đã un đúc, đã trao gửi cho ta. Nhưng “cái
có” ấy mới chỉ là những khái quát của phần cơ bản về đạo đức, chưa đủ để áp
dụng vào cuộc sống hằng ngày!
Hai vợ chồng
nọ, tương đối giàu có, nhà cửa sang trọng, đầy đủ tiện nghi cho cuộc sống.
Nhưng hay lớn tiếng nặng lời với nhau, con cái nghe được, buồn rầu lắm! Có
những vợ chồng còn dùng bạo lực với nhau, khiến con cái phải đau lòng. Thậm
chí, họ thản nhiên ly dị, cắt đứt tình nghĩa, buộc con phải xa lìa cha hoặc
mẹ..! Thế mà, không ai thấy mình có lỗi, không ai thấy mình thiếu đạo đức. Có
thiếu đạo đức chăng là phía đối phương, còn mình thì không.
Cũng như, những
nhà kinh doanh, nếu chỉ cạnh tranh với nhau, là nguyên tắc bình thường. Nhưng
ganh tỵ, tìm cách triệt hạ nhau, là việc không còn bình thường nữa. Hai khối giao
chiến, cả hai bên đều thấy mình vì chính nghĩa. Giá có thấp thoáng đâu đó,
những tấm biển đề cao đạo đức; có văng vẳng đâu đó, những tiếng chuông mời gọi
đạo đức… mọi tình huống trong xã hội không đến nỗi quá đau xót như chúng ta
từng đau xót!
Do đó, về đạo
đức, đạo đức làm người, cần phải được học hỏi thêm, trau dồi thêm. Nhưng đâu là
nơi… để “thêm”? Ai là người… để “thêm”?
Các môn Toán,
Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Hội họa, Âm nhạc, Y tế vệ sinh… nhà trường có
giảng dạy. Những kiến thức có được (của các môn học ấy ở trường), với bấy
nhiêu, chưa đủ “tài” để áp dụng vào cuộc sống mà phải học hỏi thêm. Các môn học
này có chuyên ngành, có trường lớp, có viện nghiên cứu… để giúp các em trau dồi
thêm. Y tế, quan trọng hơn, nên được chú tâm đặc biệt hơn, được theo dõi chặt
chẽ hơn, có bộ, sở, phòng, trạm đảm trách. Còn… còn đạo đức… thì sao?(!).
Quan tâm đến
đạo đức, mối quan tâm hàng đầu (ai cũng minh định như vậy), nhưng phải “quan
tâm” bằng cách nào? Không thể chỉ “nói” như xưa nay đã từng nói; không thể chỉ
“khởi xướng” như xưa nay đã từng khởi xướng! Phải quan
tâm một cách cụ thể. Đạo đức không thể bị che khuất, bị mờ nhạt dần sau các môn
học khác. Đào tạo một con người tốt đẹp, hữu dụng… là đào tạo đủ ba phương
diện: trí dục, thể dục và đức dục. Ba yếu tố tối quan trọng này của con người,
như ba cành chính của một thân cây, nếu phát triển không đồng đều, cây không
thể đứng vững được, nhất là khi gặp phải gió mưa!
Để bình đẳng
(nói khiêm tốn) với các môn học khác, tưởng cũng nên “ban” cho đạo đức có một
chuyên ngành, ngành Đạo đức.
“Lập thêm một
chuyên ngành”, thêm một gánh nặng về nhân sự, về tài chánh ư? – Cho dù có thêm
mấy gánh nặng, cũng phải tạo cho đạo đức có được một chuyên ngành, có những con
người chuyên trách, bởi đạo đức phải được “quan tâm hàng đầu” kia mà.
Tuy thêm một
chuyên ngành, ngành Đạo đức, nhưng không thêm một gánh nặng nào cho bất cứ ai.
Thật vậy, rất
đơn giản, rất nhẹ nhàng :
Tại các trường,
các cơ quan, công ty, xí nghiệp, người ta đã thành lập Hội đồng Khen thưởng–Kỷ
luật. Hội đồng này nhằm nhắc nhở, giúp cho các em học tập, làm việc theo tinh
thần của nội quy, của luật lệ tại tập thể mình. Chúng ta cũng có thể giao thêm
chức năng cho hội đồng này và đổi tên thành Hội đồng Đạo đức, Khen thưởng, Kỷ
luật. Chức năng đạo đức của hội đồng này nhằm nhắc nhở, giúp cho các em hướng
về đạo đức, biết sống có đạo đức hơn.
Thực hiện công
việc tốt đẹp ấy, hữu ích ấy, không ai cấm cản chúng ta. Chậm trễ chi nữa kẻo
phải nói lời “đáng tiếc”. Chúng ta đừng để những “đáng tiếc” của hôm nay trở
thành những “đáng trách” của ngày mai.
Tương tự, ở các
cấp hành chính cũng nên có cơ quan đảm nhiệm chức năng này.
Toàn thế giới
cũng nên lập ra Hội đồng Đạo đức Thế giới. Ban dầu, cũng phải nhờ Liên Hiệp
Quốc, chúng ta mới có đủ điều kiện nhóm họp. Trong tương lai dài lâu, cũng phải
nương vào Liên Hiệp Quốc giúp đỡ, khuyến khích, thúc giục…. để công việc được
phát triển đồng đều khắp nơi và có lẽ Liên Hiệp Quốc sẽ giao trọng trách này
cho một Cao ủy mới, Cao ủy đặc trách Đạo đức.
Những thành
viên trong các hội đồng Đạo đức có trách nhiệm như thế nào? Họ có trách nhiêm
sưu tầm, nghiên cứu những bài học đạo đức sao cho phù hợp với từng lứa tuổi,
từng thành phần sinh hoạt trong xã hội.
Nếu bạn thắc
mắc: “Những bài học đạo đức phù hợp với từng thành phần…”, phải chăng có nhiều
loại đạo đức khác nhau? – Vâng. Ngoài cái đạo đức làm người, nói chung, còn có
cái đạo đức “thêm” cho mỗi thành phần. Đơn cử như, các doanh nghiệp, có văn hóa
doanh nghiệp, thì các doanh nhân, cũng phải có đạo đức doanh nhân. Tuy mỗi
thành phần, có cái nhìn về đạo đức khác nhau đôi chút, tựu trung, điều cốt lõi của đạo đức vẫn là chân thật,
công bằng… cộng với lòng thương yêu, tình người.
Khi có đủ đạo
đức làm người, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông và gần gũi với những số phận thiếu
may mắn, sẽ thương yêu con cái mình hơn, vợ chồng không tính chuyện ly hôn,
không bạo lực, không nặng lời với nhau…
Kế hoạch giao
tranh giữa hai khối, nếu có ý kiến của Hội đồng Đạo đức, có thể những người
tham chiến sẽ không xả súng vào đám dân lành,
không trút đạn bom lên đầu những người vô tội.
Khơi dậy lòng đạo đức hay khôi phục, phát
huy, phát triển đạo đức, ai cũng đồng tình. Nhưng thử đưa ra một vài phương án
để thực hiện, lại gặp băn khoăn của một số người: - Về bài học: Xưa nay chúng ta giáo dục đạo đức cho con
cháu, dựa vào sự hiểu biết của mình. Sự hiểu biết của mình thì có hạn, bởi cũng
chẳng được học hỏi nhiều. Những bài học về đạo đức không thiếu, rất là phong
phú, còn rải rác khắp nơi trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ngạn ngữ Đông, Tây…
Như « Ở hiền thì gặp lành »; « Gieo gió thì gặt bão »;
« Ở có đức, có sức mà ăn »; ngạn ngữ Pháp thì có câu « Qui voile
un œuf, voilera un bœuf »; Trung Quốc có câu « Nhàn cư vi bất
thiện »…
Câu ngạn ngữ của Pháp trên đây khuyên nhủ con
người không nên xem thường một quả trứng là nhỏ mà có ý định ăn cắp. Ý tưởng
không thật thà ấy, thiếu công bằng ấy sẽ xúi giục ta sa vào tội lỗi lớn hơn: sẽ
ăn cắp một con bò.
Kho tàng giáo dục đạo đức, người xưa để lại
cũng lắm: Nhân, nghĩa, lễ… Những điều này, Khổng Tử chỉ nhắc lại chứ không phải
tự đặt ra. Chính ngài xác định “thuật nhi bất tác”. Trước đó, đã có bài học
rộng lớn: « Từ bi hỷ xã », rồi tiếp theo là « bác ái, vị
tha »; « công bằng, chân thật »; « ăn ngay ở lành »…
Một người biết, thì biết không đủ. Một người gom, thì gom không hết. Như thế,
cần phải có một nhóm người gom góp lại, chọn lựa, sắp xếp… những bài học đạo
đức theo từng đối tượng.
Thành lập ngành Đạo đức, mới có những con
người nghiên
cứu cách thức giảng dạy, sắp xếp giáo trình, giáo án, đào tạo những giáo viên,
giảng viên… Có chú trọng về đạo đức, có học tập được đạo đức, mới có thể có đạo
đức. Chẳng có sự hiểu biết nào, không học hỏi mà có. Giáo dục đạo đức cho con người để đem lại hòa bình thế
giới, rất quan trọng. Nhưng quan trọng trên hết và trước hết, là cứu nguy cho
nhân loại: Bảo tồn
nhân tính.
HÒA BÌNH
Nhận thức chính xác về hạnh phúc, nhận thức ấy dẫn tới
hòa bình; nhận thức chính xác về hiện tượng biến dạng của con người, nhận thức
ấy dẫn tới hòa bình. Dẫu thế nào chăng nữa, ước mơ của chúng ta cũng chỉ là ước
mơ hòa bình, niềm ước mơ chung của nhân loại. Giải pháp đem lại Hòa bình, không
thể bằng sức mạnh của thế lực hay vũ lực, mà chỉ có lòng đạo đức của mọi người,
Tình Người, mới có đủ khả năng xóa bỏ hận thù, xua tan binh biến.
Đi tìm hòa bình để mang lại hạnh phúc cho nhau, là một
nghĩa cử cao đẹp, rất đáng được quí trọng và tôn vinh. Chúng ta đã đi đúng
đường, con đường nhân ái, con đường Tình Người. Nhưng, có lẽ, chúng ta “đi”
chưa đúng hướng, hoặc “tìm” chưa đúng cách! Vợ chồng trong nhà, muốn được hòa
thuận, êm ấm… mà phải nặng lời, lớn tiếng hoặc
dùng bạo lực với nhau, không thành công. Sự bất hòa kia mãi âm ỉ trong lòng, sẽ
có ngày bùng phát, bùng phát dữ dội! Nhưng, nếu dùng tình cảm, thật lòng thương
yêu nhau, hoặc biết nhường nhịn lẫn nhau, thì
mọi việc trở nên êm đẹp. Bà con trong thôn xóm cũng vậy, cậy quyền thế, sức
mạnh… mà lấn át nhau; kẻ thua sút thì căm giận, tìm cách báo thù… tình làng
nghĩa xóm mỗi lúc một xấu đi. Nếu biết cảm thông, biết tha thứ cho nhau thì yên
vui biết mấy! Các dân tộc với nhau, nếu cũng chỉ dùng sức mạnh, dùng vũ khí để
trừng phạt, gọi là bảo vệ hòa bình, thì hòa bình
nếu có, cũng chỉ tạm thời, “hòa bình bên ngoài”, sự hận thù trong lòng sẽ nung
nấu mỗi ngày một nguy hiểm hơn..! Đem “tình người” mà “mua” hòa bình, hòa bình
ấy mới có giá trị bền lâu. Đừng tặng cho nhau những món quà mà người khác phải
trả giá quá đắt!
Đã đi trên con đường nhân ái để tìm kiếm hòa bình
cho nhau, dù qua giải pháp tình người
chăng nữa, thực tế cũng không thể nào đạt được kết quả như mong muốn! Đi đúng
đường sao không thể đến đích? – Chắc chắn là đã nhầm “hướng đi”, đi “ngược
chiều”! Đi theo chiều “tìm hòa bình” để “đem lại hạnh phúc” cho nhau, đã không
thành, mỗi lúc một xa dần với đích đến! Chúng ta phải “quay lại”, đi từ “tìm hạnh phúc cho mình” để đến với “hòa bình thế giới” .
Thật vậy, hạnh phúc của con người, không người nào từ chối. Khi đã nhận thức đúng đắn về hạnh
phúc, ai cũng muốn sống thế nào cho tâm hồn mình được bình yên, để đời mình
khỏi bị những dày vò, đau khổ… Những người có được tâm hồn bình yên, lương tâm
họ luôn trong sáng, không mưu đồ ám hại ai; không gian tham, lừa dối; không
phản bội, hận thù; sống trong tình người, đối xử với nhau bằng tấm lòng nhân
ái… Người người như thế trong một nhà, một nhà êm ấm. Nhà nhà như thế trong một
xóm thôn, một xóm thôn yên vui. Xóm xóm thôn thôn như thế trong một nước, một
nước thái bình. Nước nước như thế, một nền hòa bình thực sự và vững bền sẽ bao
phủ cả trái đất, mát rượi tình nhau, sung sướng biết là ngần nào!!
Nhưng, bạn cho rằng chúng ta nào phải là nhà lãnh đạo,
nhà cầm quyền hay thành viên cột trụ của một tôn giáo… mà bàn đến chuyện “hòa
bình”. Ta chỉ là một hạt cát trong sa mạc, là con số không trên đường đời! -
Vâng, ta là một hạt cát, hạt cát nhỏ nhất trong triệu triệu hạt cát. Nhưng
không có một hạt cát bé nhỏ thì làm gì có sa mạc? Ta là số không trên đường đời
hay nói cụ thể hơn, là số không trên con đường tìm kiếm hòa bình. Con đường
nào, mốc khởi đầu, lại chẳng là số không.
Chúng tôi “lên đường”, các bạn “lên đường”, tất cả chúng
ta đều “lên đường” tìm hạnh phúc cho mình, chỉ cần cho mình. Hạnh phúc của mình
tìm được thì hòa bình thế giới có được.
KẾT
LUẬN
CHỈNH TRANG CON ĐƯỜNG
CHÚNG TA ĐANG ĐI:
- Giảm dần các chuyên gia vũ khí. Những kẻ
nghiên cứu, sản xuất, buôn bán, sử dung vũ khí là những tên sát nhân, tội ác hủy
diệt loài người. Hãy làm những công việc khác, hữu ích cho đồng loại.
- Chận đứng sản xuất các chất độc hại. Chất
độc hại cũng là một dạng vũ khí, nguy hiểm hơn, khó tránh.
- Giảm dần số người ăn bám. Số lượng người
ăn bám trên toàn cầu, quá lớn. Cá nhân ăn bám, tập thể ăn bám. Rất nhiều tổ chức,
ăn bám từ trên xuống dưới, một hệ thống ăn bám. Biết bao nhiêu người đói rét vì
họ, chết vì họ đã cướp phần lương thực của mình!
- Không nên đua nhau xây dựng những đền
đài đồ sộ, nguy nga… giữa những người đói khổ. Nguồn vốn từ đâu, xây dựng để
làm gì? Làm ngơ trước những người đói khổ, là đồng lõa với những kẻ giết người.
Tiền của, nên ưu tiên cho người bệnh tật, nghèo đói.
- Giáo dục Đạo Đức, theo đà tiến của
khoa học kỹ thuật. Khi khoa học kỹ thuật phát triển mà không đề cập đến đạo đức,
rất nguy hại, như đã thấy khắp đó đây. Phải đưa giáo dục đạo đức lên hàng đầu
(như đã trình bày trên đây).
- Cổ vũ Tình Người. Tình Người giải quyết
ổn thỏa mọi vấn đề. Nên sử dung Tình Người trong giao tiếp, điều hành, lãnh đạo,
bang giao, đàm phán… để dễ có kêt quả tốt đẹp.
- Những thành phần triển khai các học
thuyết, giáo thuyết, chũ nghĩa… xin đừng quên, đừng làm lu mờ phần nhân bản của
mình là Tình Người và cứu cánh cũng là Tình Người. (Những bậc am tường các học
thuyết, giáo thuyết, chủ nghĩa… đều biết rõ 2 điều chính yếu ấy).
Tóm lại, thiếu Tình Người, loài người không thể tồn tại. Những tiếng kêu cứu
thống thiết khắp nơi, ai cứu? Chỉ có Tình Người mới cứu được loài người.
BỨC TÂM THƯ
Yêu quí gửi : Những thế hệ mai
sau.
Các con yêu quí,
Chúng tôi rất sung sướng được biết các con đang vui sống,
sống rất hạnh phúc, hạnh phúc thực sự trong vĩnh cửu hòa bình. Chắc chắn các
con nghĩ rằng chúng tôi là những ai đó xa lạ, xa lạ như người Tiền Sử!
Các con nhận xét chí phải. Chúng tôi là những người biết
“tự phạt” về các nhầm lẫn của mình, qua những lằn roi chiến tranh và nhiều đau
khổ khác. Các con là những người biết “tự thưởng” mình trong hạnh phúc và hòa
bình. Hai thế giới hoàn toàn trái ngược nhau, “xa lạ” với nhau là đúng. Các con
ngỡ chúng tôi là những người Tiền Sử? Không phải các con “ngỡ” mà thực tế, là
sự thật. Chúng tôi là những người Tiền Sử, lắm lần “lột xác”, mỗi thời đại,
mang một thân xác mới. Các con cũng vậy, đã “lột xác” từ chúng tôi và qua chúng
tôi, để tiếp tục nối dài sự sống của loài người. Tất cả chúng ta luôn luôn là một,
là một từ nguyên thủy cho đến sau cùng.
Các con đã lập được một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên không có
người nhầm lẫn trong các nhận thức của mình, nên không còn gian tham, ganh
ghét; không còn tranh chấp, hận thù; không còn đói nghèo, chiến tranh… Tất cả
đều được hạnh phúc trong tinh thần thắm thiết thương yêu nhau. Nghiễm nhiên các
con đã mở ra một kỷ nguyên mới. Chúng tôi phải tự phạt mình vì từ thời đại của
chúng tôi trở về trước, vướng phải nhiều nhầm lẫn, nhất là nhầm lẫn về hạnh
phúc. Chúng tôi đi tìm hạnh phúc và cũng muốn mang hạnh phúc đến cho mọi người.
Nhưng không ngờ, càng đi tìm càng cảm thấy bất hạnh và gây thương đau cho bao
nhiêu người khác! Ngỡ thương người, mà không ngờ mình đang làm hại; ngỡ cứu
vớt, mà không ngờ mình đang dìm sâu anh em; ngỡ đem lại hòa bình, mà không ngờ
gây tang tóc, điêu linh… Những chiến xa nghiền nát hàng vạn người; những trái
đạn, trái bom hủy diệt hàng ngàn, hàng triệu người trong nháy mắt… chỉ mang lại
cho loài người những tưởng niệm thê lương! Chưa có ai giúp được gì nhiều cho
nhau. Phải chăng, các hình phạt ấy đã thôi thúc các con tĩnh ngộ?
Thời đại các con, những đàn anh đã sớm ý thức tốt, nhận
định đúng đắn, biết tự tìm hạnh phúc đích thực cho mình (sự bình yên trong tâm
hồn) và mang hạnh phúc ấy chia sẻ cho những người bên cạnh. Đáng ghi nhớ nhất,
là “tấm lòng” của những nhà lãnh đạo các tập thể. Họ rất nhiệt tình, giải thích
và mời gọi được tất cả. Nhờ uy tín, tiếng nói của họ được nhiều người lắng
nghe, các con làm được điều đó dễ dàng, vì “niềm vui và hạnh phúc, càng cho
càng thấy tràn đầy hơn nhiều”. Ai cũng ý thức rõ như thế và làm theo như thế.
Những mầm mống ganh tỵ, tranh chấp, hận thù… không còn nữa. Chiến tranh không
còn chỗ ẩn núp trong lòng người. Từ đó, ấm no đến với mọi nơi; bệnh tật dần dần
rút lui. Tiếp nối, có các con đồng cảm và hưởng ứng, nên đã lập được một thiên
đường ngay trên trần thế, một thiên đường mà chúng tôi đã từng khao khát và chỉ
biết khao khát! Mãi cho đến thời đại của các con đây, các con mới mạnh dạn,
đồng tâm hiệp ý, đổi thay nhận thức. Không nhầm lẫn về hạnh phúc của đời người,
vượt qua những kỷ nguyên cũ mà chúng tôi chỉ hô hào, khởi xướng chứ chưa xoa
dịu được nỗi đau cho nhau. Như làm lại từ đầu, các con đã đi từ “tìm hạnh phúc
đích thực cho mình”, chỉ cần “cho mình” thôi, mà đã đến đích, đạt được hòa bình
thế giới.
“Đạt được hòa bình thế giới” mà không cần tìm kiếm một
giải pháp to lớn nào khác; không cần nghiên cứu kế hoạch, sách lược; không cần
chuẩn bị phương tiện, sức lực; không cần phải chấp nhận mất mát, hy sinh…
Tâm sự với các con, mừng cho các con lập được một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu hòa bình. Kỷ nguyên mới ra đời, mà không hề có ai đó (bị bắt
buộc hoặc tự nguyện) phải trả giá, dù chỉ giọt mồ hôi. Chúng tôi đã mãn nguyện
và mãi mãi sung sướng, dẫu mai đây, không còn gặp nhau trong dạng thể cũ này
nữa, mà phải biến sang một dạng thể mới.
Với dạng thể mới ấy, chúng ta sẽ được trọn vẹn gần gũi và
hiểu nhau hơn.
Yêu quí các con lắm lắm.
Lê Quý Long.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét