TỔ
QUỐC VIỆT
(Lê
Quý Long diễn ca)
Việt
Dựng hồn lịch sử mấy ngàn năm qua
Máu xương tô thắm sơn hà
Kết đoàn tô thắm tình nhà, lòng dân.
Cội nguồn từ Lạc Long Quân
Gian nan cùng với Âu Cơ lập dòng
Sinh trăm trứng, nở trăm con
Chia nhau lập nghiệp, lòng son ngập ngừng
“Năm mươi”(50) theo mẹ lên rừng
“Năm mươi”(50) xuống biển sống cùng với cha.
Chung tay dựng nước non nhà
Văn Lang, quốc hiệu; vua đầu: Hùng Vương.
Dân ta là giống Tiên Rồng
Nước ta lại có dạng rồng nguy nga:
Chân trước là đảo Hoàng Sa
Chân sau là đảo Trường Sa (ngàn đời)
Đuôi dài Phú Quốc vươn khơi
Mào dài kiêu hãnh Lai Châu xanh màu…
Cớ sao cái lũ giặc Tàu
Bám theo cướp bóc đến nay không chừa?
Xa xưa, cái thuở xa xưa
Triệu Đà xảo quyệt, đánh lừa Mỵ Châu
Nỏ thần, chúng tráo, còn đâu…
Nước ta (Âu Lạc) vào tay Triệu Đà !
Hán đùng đùng kéo quân qua
Đánh chiếm đất Triệu; đất ta, chia phần:
Nhật
Chúng luôn áp bức, dân làm ngựa trâu…
Năm “ba chín”(39), ngọn cờ đầu
Hai Bà Trưng đã đuổi Tàu tháo lui.
Tàu lui rồi lại “chẳng lui”
Tính tham vơ vét…mà lui “sao đành”!
“Hai bốn tám”(248), tiếp đấu tranh
Bà Triệu khởi đánh tan tành giặc Ngô.
Về sau, quân ít thế cô
Phải cam thất trận, dưới mồ còn căm!
“Năm bốn bốn”(544), đánh ngoại xâm
Lý Bôn quyết đuổi giặc Lương khỏi bờ
Chẳng may lâm bệnh bất ngờ
Giao Triệu Quang Phục cầm cờ khiển binh
Lên ngôi lấy hiệu Việt Vương
Lui về Dạ Trạch, lợi đường đấu tranh.
Nhưng sau, cơ sự chẳng thành
Đến Mai Hắc Đế, rạng danh một thời:
Quân Đường bị đánh tả tơi
Rồi sau, non nước… cũng rơi tay Tàu!
Nghìn nghìn cảnh khổ, đớn đau
Dân ta gánh chịu, nỗi này khó quên
Mai Hắc Đế đã đứng lên
“Bảy hai hai”(722) ấy, làm nên sử vàng.
Tàu thêm mười vạn binh sang
Phía ta sức yếu, khó tan giặc Đường.
Ra tay, Bố Cái Đại Vương
Năm “bảy chín một”(791) rạng phương trời Hồng
Hai mươi năm, mãi tiến công
Đuổi được lũ giặc cuồng ngông chạy về.
Rồi mây… lại phủ sơn khê
Bạo tàn Nam Hán trên quê hương mình !
“Chín ba chín”(939), tướng Ngô Quyền
Đánh tan giặc Hán: xác, thuyền…đầy sông.
Trận Bạch Đằng đã nằm lòng
Toàn dân nô nức tôn vua: Ngô Quyền.
Dân yếu thì nước chẳng yên
Mỗi vùng, tự vệ; mỗi miền, tự xưng..!
Nỗi lo “thập nhị sứ quân”
Nên Đinh Bộ Lĩnh cùng chung Lê Hoàn
Thống nhất “nhị thập” vẻ vang
Lên ngôi “chín sáu tám”(968) Đinh Tiên Hoàng.
Tình hình còn lắm ngổn ngang
Vua lại mất sớm, Lê Hoàn loay hoay…
Thái hậu, ấu chúa bên tay
Giặc ngoài biên ải vây dày khắp nơi
Âu đây cũng đã cơ trời
Triều đình,Thái hậu trao ngôi Lê Hoàn
Một thân lèo lái giang san
Lên ngôi với hiệu là Lê Đại Hành
“Chín tám không”(980), mốc rạng danh
Dân mình no ấm, an lành, yên vui.
Nối ngôi, chỉ có hai người
Đến vua Long Đĩnh, kẻ cười, người khinh!
Các quan văn võ triều đình
Tôn Lý Công Uẩn thăng vinh ngai vàng
“Mười mười”(1010), Thái Tổ, chỉnh trang
Mọi việc triều chính đường hoàng hơn xưa.
Nhà Lý với chín đời vua
Về sau, quyền bính vào tay nhà Trần.
Trần Thủ Độ lắm oán, ân
Bày ra Trần Cảnh, vợ dâng ngai vàng.
Chín đời Trần, cũng sang trang
Giặc Minh cướp phá, dân càng khổ đau
Phất cờ, Lê Lợi đuổi Tàu
Lên ngôi Thái Tổ, rạng ngời non sông!
Mười đời Lê tiếp nối ngôi
Phải thời loạn Mạc: vua, tôi… “ẩn mình”.
Cũng nhanh, khôi phục triều đình
Tiếp thêm “mười sáu”(16) vua Lê trị vì.
Nước nhà lại gặp lâm nguy
“Vua Lê, Chúa Trịnh” khiến suy yếu dần
Nguyễn Huệ kêu gọi toàn dân
Đứng lên đánh đuổi Mãn Thanh về Tàu.
Xua giặc, giải thoát dân ta
Lên ngôi hoàng đế hiệu là Quang Trung.
Tiếc thay một đấng anh hùng
Số trời yểu mệnh, không cùng nước non!
Đạo quân Nguyễn Ánh vẫn còn
Thừa cơ, nắm lấy chính quyền, lên ngôi.
Sau khi thống nhất nước rồi
Gia Long là hiệu của người ngôi cao.
Nguyễn triều phải lắm lao đao
Giặc Tây cũng đã nhảy vào: xót xa !
X
Cuối cùng, ta giữ được ta
Giữ được dòng máu, nhà nhà an vui.
Việt
Tình dân: bất khuất; tình người: bao la…
Ai ơi ! giữ nước non nhà.
Lê
Quý Long.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét